Linh Đạo Phong trào
Giáo dân ViệtNam
Hải ngoại
Giáo dân Việt
(tiếp theo)
ngay trong môi trường gia đình và xã hội mình đang sống.
II.
Linh Đạo Giáo dân (tiếp theo)
Để sống đức tin giữa lòng trần thế,
sống đạo giữa đời và thánh hóa thế gian, người
Kitô hữu cần ý thức ba thiên chức
quan trọng của Chúa Kitô mà họ đã lãnh nhận từ Ngài khi chịu phép rửa tội,
đồng thời thi hành ba thiên chức ấy trong mọi phương diện của trần thế.
Ba thiên chức ấy là: Vương
Giả, Tư Tế và Ngôn Sứ mà chúng ta có thể diễn tả
thành ba chức năng: Làm Chủ, Làm Lễ và Làm
Chứng (1*).
Ba thiên chức này phản ảnh 3 công
việc của Ba Ngôi Thiên Chúa:
– Làm Chủ: là công việc của Chúa Cha, Đấng tạo dựng, điều hành và là
chủ tể của vũ trụ vạn vật.
– Làm Lễ: là công việc của Chúa Con, Đấng hạ mình nhập thể làm người,
đã dùng chính đời sống, sự đau khổ và cả sự chết của mình để thờ phượng Thiên
Chúa Cha và để chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và con người.
– Làm Chứng: là
công việc của Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong Giáo Hội để thánh hóa con
người, và để làm chứng cho Thiên Chúa và Chúa Giêsu qua lời nói và việc làm của
các ngôn sứ mọi thời đại.
Đây cũng là ba chức năng quan trọng
mà Chúa Giêsu đã thực hiện suốt cả cuộc đời mình một cách gương mẫu, và cũng là
ba chức năng mà những ai muốn làm môn đệ của Ngài cần phải thực hiện trong
chính cuộc sống của mình.
__________________________
(1*)
«Anh
em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư
tế, vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người [=ngôn
sứ], Ðấng đã gọi anh em ra khỏi
miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền» (1Pr 2,9).
1) Làm chủ:
Chức năng Làm Chủ
–phát sinh từ thiên chức Vương Giả–
là làm chủ bản thân, làm chủ tập thể (gia đình, xã hội, Giáo Hội), làm chủ ngoại
cảnh (thiên nhiên, môi trường, hoàn cảnh, những chuyện xảy đến…) (2*).
_________________________
(2*) Tinh thần người làm chủ một công việc hay một tài sản khác với
tinh thần của một người khách hay người làm công.
–
Người khách đến thăm
không có trách nhiệm gì trong căn nhà hay tài sản của người chủ căn nhà hay tài
sản ấy, vì căn nhà hay tài sản ấy không phải là của người khách. Việc giữ gìn
hay dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ ngăn nắp là trách nhiệm của người chủ.
–
Người làm công chỉ làm
và chỉ có trách nhiệm trên những việc mà người chủ giao làm. Hết việc hay hết
giờ làm là hết trách nhiệm. Còn người làm chủ thì có trách nhiệm trên toàn thể
công việc hay hãng xưởng mà mình làm chủ. Thành công thì mình hưởng, còn thất bại
thì mình chịu.
Tóm
lại, người làm chủ cảm thấy có trách nhiệm trên toàn thể tài sản hay công việc
mà mình làm chủ. Thái độ của người làm chủ rất khác với thái độ của người khách
hay người làm công.
Với
chức năng và tinh thần «làm chủ» này,
người giáo dân Kitô hữu cũng được Thiên Chúa mời gọi làm chủ gia đình mình, xứ
đạo mình, làm chủ xã hội, làm chủ đất nước, làm chủ Giáo Hội, làm chủ lịch sử,
và làm chủ thế giới. Sống tinh thần «làm
chủ», người Kitô hữu luôn luôn cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm đối với
tình trạng tốt xấu, tiến bộ hay tụt hậu, v.v... của tất cả những thực thể hay tập
thể đó.
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng họ theo hình ảnh
của Ngài và giống như Ngài. (x. St 1,26; x. St 1,27; 5,1.3; 9,6). Mà Ngài là chủ
tể thống trị vũ trụ vạn vật, Ngài cũng muốn con người làm chủ như thế. Vì thế,
khi vừa tạo dựng con người, Ngài đã mời gọi con người làm chủ: «Hãy thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển,
chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất» (St 1,28).
Khi mời gọi con người như thế,
đương nhiên Ngài muốn chúng ta là những ông/bà chủ nhỏ, làm chủ mọi sự theo
cung cách và đường lối của Ngài. Vì thế, chúng ta phải học làm chủ theo cung
cách và đường lối của Ngài, chứ không phải theo cung cách và đường lối của
chúng ta. Nói khác đi, chúng ta là những «người
chủ nhỏ» cùng cộng tác với Ngài trong việc điều hành mọi sự theo ý Ngài.
Chức năng này liên quan đến quan hệ giữa mình với chính
mình, và giữa mình với những gì không phải là mình. Trong những quan hệ này thì
mình luôn luôn nắm vai trò chủ động: chủ động trong việc biến đổi mình và biến
đổi mọi sự nên tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, chủ động biến đổi mọi sự nên tốt đẹp ở
đây không có nghĩa là mình ép buộc mọi người, mọi sự nên tốt theo ý mình, mà
mình phải tự biến đổi mình trước tiên. Khi mình biến đổi thì mình sẽ làm cho mọi
người mọi vật chung quanh mình cũng biến đổi theo.
Như vậy, điều quan trọng nhất trong chức năng này là làm
chủ bản thân, nghĩa là tự chủ, là tự thắng mình, chế ngự bản thân,
không để tình cảm, xúc động, dục vọng, bản năng, sở thích, ngoại cảnh điều khiển
mình (3*). Có làm chủ được bản
thân mới có thể làm chủ được tập thể và ngoại cảnh, làm cho mọi sự nên tốt đẹp
đúng như ý muốn hay chương trình của Thiên Chúa (4*).
_________________________
(3*)
«Những
việc nhỏ đều quan hệ, con đừng khinh thường. Thắng mình liên lỉ trong các việc
nhỏ, con luyện ý chí thành sắt đá và làm
chủ bản thân con» (ĐHV § 215)
(4*)
Lão Tử viết: «Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường» (Thắng người là kẻ có sức,
nhưng thắng mình mới là người mạnh) (Đạo
Đức Kinh, chương 33).
Nói chung, làm chủ bản
thân, làm chủ tập thể (gia đình, xã hội, Giáo Hội), làm chủ ngoại cảnh (thiên
nhiên, môi trường) đòi hỏi chúng ta ý thức trách nhiệm đối với những thực thể ấy.
Khi có chuyện gì xảy ra tốt hay xấu đối với những thực thể ấy, người có tinh thần
làm chủ lập tức cảm thấy mình có trách nhiệm chính trong đó, chứ không quy
trách nhiệm hay đổ lỗi cho người khác (5*). Từ đó phát sinh ý thức chính mình
có trách nhiệm sửa sai, hoàn chỉnh mọi chuyện sao cho tốt đẹp.
_________________________
(5*) Người
có tinh thần làm chủ, khi đứng trước những khiếm khuyết, những điều không ứng ý
trong gia đình, xã hội, Giáo Hội, hay những tập thể mà mình làm một thành viên,
v.v... thì có tâm tình nhận lỗi như trong “Kinh Cáo Mình”: “… lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi
đàng” (mea culpa, mea culpa, mea maxima culpa). Từ đó, người ấy tự xét lại
bản thân xem phần lỗi của mình như thế nào trong tình trạng khiếm khuyết đó, đồng
thời sẵn sàng nhận trách nhiệm sửa sai hay hoàn thiện công việc hay tập thể của
mình. Tuyệt đối không đổ lỗi cho người khác!
Người có tinh thần làm chủ, khi gặp
những chuyện đáng tiếc thì luôn luôn “Tiên
trách kỷ, hậu trách nhân”. Chính khi mình cảm thấy có trách nhiệm trong
chuyện đáng tiếc ấy và xét xem mình có lỗi gì trong đó, thì mình mới chịu sửa
sai và nên hoàn thiện được. Và đó chính là thái độ của người làm chủ. Người có
tinh thần “làm khách” hay “làm công” thì không bao giờ thấy mình có trách nhiệm
trong đó.
2) Làm lễ
Chức năng Làm Lễ –phát
sinh từ thiên chức Tư Tế– là thể hiện tương quan giữa mình với
Thiên Chúa, vừa là chủ tể của mình và vạn vật, cũng là người Cha luôn luôn yêu
thương chăm sóc mình và vạn vật. Do đó, chức năng làm lễ được thể hiện qua việc
thờ phượng, yêu mến, kính phục, quyết tâm sống thực hiện Thánh Ý Ngài, làm theo
những lời Ngài dạy (6*), và phó thác cuộc sống của mình cho Ngài (7*). Nói
chung, những việc làm hay tâm tình ấy được gọi là cầu nguyện (8*). Cầu nguyện rất
cần thiết trong đời sống Kitô hữu, nhất là trong việc tông đồ (9*).
_________________________
(6*)
«Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy : "Lạy Chúa ! lạy Chúa !" là được vào Nước
Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn
của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy,
nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng : "Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã
chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh
Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao ?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ :
Ta không hề biết các ngươi ; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác
!» (Mt 7,21-23)
(7*)
Việc ca tụng, ngợi khen Thiên Chúa là
điều tốt, nên làm. Nhưng đối với Thiên Chúa, nó không giá trị bằng việc thực hiện
những lời Ngài dạy, những tâm tình hay hành vi yêu thương đối với đồng loại. Thật
vậy, Thiên Chúa nói qua lời ngôn sứ Isaia: «Ngần
ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta,
nào nghĩa lý gì ? Lễ toàn thiêu chiên
cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò,
máu chiên dê, Ta chẳng thèm ! Khi các ngươi đến trình diện Ta, ai khiến các ngươi phải giẫm lên khuôn viên
của Ta ? Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương ; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạt linh đình. Ta chán ghét
những ngày đầu tháng, những đại lễ của
các ngươi. Những thứ đó đã trở thành
gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa.
Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn ; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng
thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những
máu. Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng
mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập
làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa
phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện
hộ cho quả phụ» (Is 1,11-17).
(8*)
Cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, ca
tụng Thiên Chúa, xin Ngài ơn nọ ơn kia. Cốt yếu của cầu nguyện không nằm ở những
việc đó, mà ở chỗ nâng tâm hồn lên hướng về Thiên Chúa, kết hiệp với Thiên Chúa
qua quan niệm, tư tưởng, lời nói, việc làm, quyết tâm trở nên hoàn hảo giống
Thiên Chúa...
Chắc chắn Thiên Chúa không thích những
lời nguyện không phù hợp với tâm tình đích thực bên trong, không xuất phát từ
đáy lòng, hay những lời cầu xin phản ánh tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình: «Giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những
người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng
Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ
phượng trong thần khí và sự thật»
(Ga 4,23-24);
Khi cầu nguyện, không cần phải nói
nhiều về những nhu cầu của mình, như thể Thiên Chúa không biết gì về những nhu
cầu ấy: «Khi cầu nguyện, anh em đừng lải
nhải như dân ngoại ; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước
họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần
gì, trước khi anh em cầu xin» (Mt 6,7-8); «Dầu miệng con không nói ra, Chúa đã hiểu thấu lòng con. Con hãy xem
gương người đàn bà băng huyết: động đến gấu áo Chúa, được nhận lời ngay»
(ĐHV §139).
(9*)
«Muốn
đánh giá công việc tông đồ của ai, con hãy xem người ấy cầu nguyện thế nào? Nếu
con không cầu nguyện, chẳng ai tin con làm việc vì Chúa đâu! Tại sao có khủng
hoảng trong Hội Thánh? Vì hạ giá việc cầu nguyện» (ĐHV §§132,133,134); « Kết qủa phong phú của việc tông đồ giáo dân
tuỳ thuộc ở sự kết hiệp sống động của chính họ với Chúa Kitô, Đấng phán rằng:
“Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong kẻ ấy, như vậy mới sinh được nhiều hoa trái vì
ngoài Thầy ra chúng con chẳng làm gì được” (Ga 15,5)» (Vatican II, Tông đồ
Giáo dân §4a).
Chức năng Làm Lễ đã được Chúa Giêsu thực hiện một cách hoàn
hảo nhất mà chúng ta có thể mô phỏng hay bắt chước Ngài. Sự thờ phượng của Chúa
Giêsu được thực hiện qua một quá trình, bắt đầu từ việc hạ mình xuống thế sống
thân phận con người, nhất là đã tự hủy mình hay tự sát tế mình qua cuộc khổ nạn
và cái chết trên thập giá (10*). Nơi Chúa Giêsu, việc sát tế hay thờ phượng ấy
vừa là thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa, vừa là thể hiện tình yêu đối với
con người. Có thể nói Ngài đã thờ phượng
Thiên Chúa bằng cách yêu thương và hy sinh đến tận cùng cho con người. Đó cũng
là cách thờ phượng mà chúng ta, những môn đệ của Ngài cần noi theo. Nơi Chúa
Giêsu, việc thờ phượng Thiên Chúa và việc
yêu thương con người chỉ là một thực thể duy nhất, gắn liền với nhau không thể
tách biệt như hai mặt của cùng một tờ giấy.
_________________________
(10*)
Thánh Phaolô đã mô tả quá trình ấy như
sau: «Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống
như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu
chết, chết trên cây thập tự» (Pl 2,6-8).
Trong Cựu Ước, việc thờ phượng Thiên Chúa được thực hiện bằng
việc sát tế một con vật thay vì sát tế chính bản thân mình để nói lên quyền chủ
tể của Thiên Chúa trên mạng sống mình. Con vật bị sát tế gọi là “lễ vật hy
sinh”, như thế cốt yếu của việc thờ phượng là sự hy sinh, là hành vi sát tế.
Nhưng con vật là cái gì ngoài mình, không phải là mình hay cái thân thiết nhất
của mình. Việc thờ phượng Thiên Chúa không gì bằng sự sát tế chính “cái tôi” của
mình, cùng với những ý riêng, ý kiến, tham vọng… của mình để cuối cùng là «Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là Thiên Chúa sống trong tôi» (Gl 2, 20) (11*).
_________________________
(11*)
Cũng vậy trong những lãnh vực khác của
cuộc sống: «Tôi làm, nhưng không phải tôi
làm, mà là Thiên Chúa làm trong tôi», «Tôi
muốn, nhưng… mà là Thiên Chúa muốn...»
Chức năng Làm Lễ được thực hiện chủ yếu trong
chính cuộc sống đời thường hằng ngày, chứ không phải chỉ thực hiện tại các
thánh đường, trong các Thánh Lễ hay trong những giờ cầu nguyện (12*).
_________________________
(12*)
Thánh Lễ, các bí tích, và các giờ cầu
nguyện đem lại nhiều ơn thiêng, sức mạnh tâm linh để giúp ta sống thánh thiện,
có động lực để «từ bỏ mình» và «vác thập giá theo Chúa» hầu sống yêu
thương. Việc sống thánh thiện, sống tinh thần «từ bỏ mình» và «vác thập giá»
hầu sống yêu thương mới là mục đích hay hiệu quả của các bí tích hay những giờ
cầu nguyện.
Người Việt thường nói: «Ăn để sống, chứ không phải sống để ăn». Cũng vậy, Thánh Lễ, các bí
tích hay việc cầu nguyện là để phục vụ và phát triển đời sống tâm linh, chứ
không phải ngược lại. Cần phân biệt rõ ràng cái nào là mục đích và cái nào chỉ
là phương tiện.
Nếu những phương tiện ấy (Thánh Lễ, bí tích…) không làm
ta tiến bộ trong đời sống tâm linh, thì ta đã sử dụng những phương tiện ấy
không đúng.
Tóm lại, chức năng Làm Lễ được thực hiện bằng việc dâng
bản thân, dâng ý riêng, dâng mọi công việc của đời thường lên Thiên Chúa như một
lễ vật, cùng với Chúa Giêsu, để thờ phượng Thiên Chúa và để thánh hóa bản thân
và mọi công việc của mình (13*).
_________________________
(13*)
«Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng
Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người» (Rm 12:1); «Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội,
Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được
dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài» (Dt 10: 6-7).
3) Làm chứng
Chức năng này –phát sinh từ thiên chức Ngôn Sứ– là làm tông đồ hay làm chứng cho Thiên Chúa, cho
Chúa Giêsu-Kitô, cho chân lý (luôn luôn thành thật, nói sự thật), cho công lý
(sống công bình và đòi hỏi công bình trong xã hội, chống bất công áp bức), giúp
mọi người nên tốt lành thánh thiện hơn, để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
a– Làm chứng cho Thiên Chúa: Thiên Chúa ít khi trực tiếp và
minh nhiên dạy dỗ chỉ bảo con người, mà thường chỉ gián tiếp dạy dỗ, chỉ bảo họ
qua các ngôn sứ của mỗi thời đại. Thời đại nào cũng có những người được kêu gọi
làm ngôn sứ, làm tông đồ, hoặc hữu danh hoặc vô danh, để tiếp nối sứ mạng của
Chúa Giêsu (14*).
_________________________
(14*)
«Anh
em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền cho anh em» (Mt 28,19); «Được
ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin» (Rm 12,6); «Các Kitô hữu phải cố gắng toả ánh sáng sự sống
với tất cả lòng tin tưởng vững chắc và lòng can đảm của người tông đồ, cho dù
phải đổ máu» (Vatican II, Tuyên ngôn về Tự Do Tôn Giáo §14c); «Phải làm chứng về Chúa Kitô trên khắp mặt đất
và trình bày niềm hy vọng về cuộc sống vĩnh cửu mà họ ôm ấp cho những ai đang
khao khát (x.1Pr 3,15)» (Vatican II, Hiến chế về Giáo Hội, §10a).
Công Đồng Vatican II xác định bổn phận và quyền làm tông đồ
của người giáo dân: «Giáo dân có bổn phận và quyền làm tông đồ do chính việc kết hợp với Chúa Kitô là Đầu.
Họ được chính Chúa chỉ định làm việc
tông đồ, vì phép Rửa tội sát nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, phép Thêm sức
làm cho họ thêm mạnh mẽ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Họ được thánh hiến vào chức vụ tư tế vương
giả và dân tộc thánh (x. 1Pr 2,2-10), hầu trong mọi việc họ dâng những lễ vật
thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô
ở mọi nơi trên hoàn cầu» (Vatican II, Sắc lệnh về Tông Đồ Giáo Dân §3a).
Chức năng Làm Chứng không chỉ là làm tông đồ hay làm chứng
cho Thiên Chúa, mà còn phải làm chứng cho chân lý, công lý và tình yêu Kitô
giáo bằng chính đời sống và việc làm của mình.
b– Làm chứng cho chân lý: Người giáo dân Kitô hữu phải luôn
luôn ăn ngay nói thật, không gian dối trong lời nói cũng như trong việc làm
(15*). Phải sống làm sao để bất kỳ lời nào ta nói ra phải là những lời tốt đẹp,
người khác có thể tin ngay, không phải nghi ngờ điều gì (16*).
_________________________
(15*)
«Có
thì nói có, không thì nói không, thêm bớt điều gì là bởi ma quỉ mà ra» (Mt
5,37).
(16*)
«Anh
em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt
đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe» (Ep 4,29).
c– Làm chứng cho công lý: Sống công bằng và sòng phẳng đối
với mọi người, không bất công đối với bất kỳ ai, về mặt tiền bạc cũng như ân
nghĩa; đó là công bằng cá nhân mà người
giáo dân Kitô hữu phải thực hiện (17*). Ngoài ra, Kitô hữu còn phải chống bất công xã hội đồng thời cổ võ việc thực
thi công bằng xã hội trong môi trường
mình đang sống (18*). Đây là nền tảng của Đức Ái Kitô giáo. Đức Ái Kitô giáo
không thể có được nếu không được xây dựng trên nền tảng công bằng (19*).
_________________________
(17*)
«Lời
bất công của người công chính vô cùng ác hại. Đó là thuốc độc do tay bác sĩ
trao. Toa thuốc ấy càng truyền ra, càng giết người» (ĐHV §757).
(18*)
«Của
cải trần gian là để cho mọi người hưởng
dụng. Thiên Chúa đã đặt định trái đất và mọi vật trên trái đất thuộc quyền sử dụng của mọi người và mọi
dân tộc. Chính vì thế, của cải được tạo dựng phải được phân phối cho tất cả
mọi người một cách hợp lý theo luật công
bằng là luật đi liền với bác ái»
(Vatican II, Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay §69a).
«Hoà bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ được giản
lược vào sự quân bình giữa các lực lượng đối phương, cũng không phát xuất do một
nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng định nghĩa thì hoà bình là “công trình của công bằng” (Is 32,17)» (nt §78a).
(19*)
«Đức
tin phải biểu lộ sự phong phú của mình bằng cách thâm nhập vào toàn thể đời sống
của các tín hữu, kể cả đời sống thế tục và thúc đẩy họ sống công bằng, bác ái
nhất là đối với người nghèo khổ» (nt §21e).
d– Làm chứng cho tình yêu: Tình yêu đối với nhau và đối với
mọi người là dấu chứng của người môn đệ Chúa Giêsu: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em
yêu thương nhau» (Ga 13,35) (20*).
_________________________
(20*)
«Việc
noi theo và làm chứng đức ái cùng sự
khiêm hạ của Chúa Kitô cần được các môn đệ thực hiện không ngừng; nên Giáo hội
là Mẹ chúng ta vui lòng khi thấy trong lòng mình có nhiều con cái nam nữ muốn
theo sát gương Đấng Cứu Thế và tỏ lộ rõ ràng hơn sự tự diệt của Người»
(Vat. II, GH §42d).
Người ta chỉ yêu đúng nghĩa hay yêu đích thực khi người ta
thực hiện được hai yếu tố: “từ bỏ mình” và “vác thập giá” (21*), là hai điều kiện
mà Chúa Giêsu đòi hỏi những người muốn theo Ngài phải có từ trong bản chất của
mình (22*). Người theo Chúa phải là chứng nhân sống động của tình yêu đích thực
đối với mọi người, không trừ ai, nhưng phải bắt đầu từ những người gần mình nhất:
vợ con, cha mẹ, anh em, bạn bè, rồi đến những người xa hơn…
Người giáo dân nên
thánh giữa đời chính là thực hiện 3 chức năng trên của người Kitô hữu trong đời
sống thường ngày.
_________________________
(21*)
“Từ bỏ mình” = ra khỏi chính mình, quên
mình; “vác thập giá” = chịu thiệt thòi, đau khổ. Yêu ai mà ta không quên mình
đi để nghĩ đến hạnh phúc của người đó, và cũng không chấp nhận hy sinh, chịu khổ
hay chịu mất mát gì để người đó được hạnh phúc, thì tình yêu đó không phải là tình
yêu đích thực. Lúc đó, mình chỉ yêu mình và tìm cách hưởng hạnh phúc bằng tình
cảm của người đó dành cho mình, chứ không phải yêu người đó. Nói cách khác,
mình yêu mình qua người đó: tình yêu đi đường vòng đến người đó để rồi trở lại
chính mình.
(22*)
«Đức
mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận
thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến
tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả» (1Cr
13,4-7).
No comments:
Post a Comment