Tật nguyền không phải là tội. Nhất là người tật nguyền như
Fanny Crosby đáng được toàn thể giáo hội Cơ Đốc giáo kính phục. Fanny Crosby
(1820-1915) là một người mù nhưng có hai điểm nổi bật. Bà thuộc lòng nhiều câu
Kinh Thánh, gần như toàn bộ Tân Ước, Ngũ Kinh Môise, Thánh Vịnh, Rút. Và sáng
tác khoảng 8.000 bài thơ phổ nhạc.
Fanny Crosby sinh tại ngoại ô thành phố Nữu ước ngày
4.3.1820 trong một gia đình tín đồ yêu mến Chúa. Bé Fanny bị bịnh mắt từ lúc mới
được 6 tuần lễ. Thiếu ánh sáng đã là bất hạnh và cùng cực rồi, mà cha Fanny lại
qua đời khi em chưa đầy 12 tháng để Fanny lại cho mẹ và bà nội nuôi. Mỗi khi đi
ngủ bà kể chuyện tích Kinh Thánh cho Fanny nghe. Fanny rất yêu thiên nhiên, yêu
vẻ đẹp của đất trời, yêu ánh nắng ấm rực rỡ cùng mùi thơm của muôn hoa và tiếng
chim hót rộn ràng.
Bù lại khuyết tật về mắt, Chúa cho Fanny có trí nhớ phi thường.
Em có thể đọc các đoạn Kinh Thánh thật dài và nhớ rất lâu. Khả năng thiên phú về
văn chương của em phát triển rất sớm. Năm 11 tuổi đã có thơ đăng báo.15 tuổi,
Fanny được nhận vào trường mù của thành phố Nữu Ước. Cô trở thành sinh viên xuất
sắc nhất trường về các môn văn chương, sử ký, triết học và khoa học. Âm nhạc là
môn cô ưa thích nhất, cô chơi cả dương cầm và phong cầm. 24 tuổi, cô xuất bản tập
thơ đầu tay tựa đề: Em gái mù và những vần thơ.
27 tuổi, cô được mời làm giáo sư tại trường mù và làm việc tại đó suốt
11 năm. Dù được học biết về Chúa Giêsu từ nhỏ nhưng mãi đến năm 30 tuổi, trong
một buổi nhóm, sau khi nghe một bài Thánh Ca, Fanny mới thật sự cảm động dâng
mình hầu việc Chúa. Từ đó trở đi, tất cả tài năng của cô được hiến dâng cho
Chúa Giêsu.
Dù bà thiếu ánh sáng thiên nhiên nhưng ánh sáng công chính
luôn đầy dẫy, đúng như lời mẹ đã nói khi xưa. Bà sốt sắng muốn phổ biến ánh
sáng cứu rỗi đó cho những người chưa biết đến Chúa, vì bà luôn ý thức được việc
phục vụ Chúa bằng cách “truyền rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến”và
luôn mang trong lòng trọng trách: “lo vực người đang lưu vong, sẵn vớt kẻ giữa
dòng, truyền danh Giêsu ban cứu ân cho tội nhân…”(Mana Plus)
Chúa Nhật 4 Mùa Chay được mệnh danh là Chúa Nhật Ánh Sáng,
vì Tin Mừng Thánh sử Gioan tường thuật phép lạ Đức Giêsu chữa người mù được
sáng mắt, lẫn sáng cả phần hồn. Tuy nhiên hành trình tìm Ánh Sáng của anh trải
qua nhiều thách đố, tiêu biểu cho bất cứ ai muốn tìm thấy Ánh Sáng cứu rỗi.
Thách đố bản thân
Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa
bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa." Anh ta
ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được. (Ga 9, 6)
Thách đố đầu tiên là chính bản thân anh mù, liệu có dám hoàn
toàn phó thác và cậy trông vào quyền năng Đức Giêsu hay không? Hay lại nghi ngờ
bùn đất lại làm viêm nhiễm thêm đôi mắt vốn đã hỏng từ khi lọt lòng? Hoặc chỉ
mong đợi biệt dược quý hiếm, đắt tiền, hay bác sĩ nhãn khoa tài giỏi mới cứu chữa
nổi? Không hề nghi ngại, so đo, ngờ vực, anh mù vui vẻ vâng phục Thánh Ý ngay lập
tức.
Hơn nữa, ân huệ chỉ nhận được trọn vẹn, khi người nhận khao
khát, sẵn sàng tích cực hợp tác, đón nhận, như thân hành đến hồ Silôê mà rửa.
Vì Chúa luôn tôn trọng con người tự do chọn lựa. Thế còn Kitô hữu hôm nay, có
dám noi gương, luôn sẵn sàng tuân theo Lời Chúa răn dạy hay không?
Thách đố gia đình bỏ rơi
Đi theo tiếng Chúa gọi, cũng là từ bỏ tất cà, từ bản thân đến
gia đình, bố mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc, để trung kiên theo Ơn Gọi rao
giảng Tin Mừng và làm chứng nhân. Hôm nay, cha mẹ anh mù dù biết rõ tại sao con
họ sáng mắt, cũng không dám ho he nói ra sự thật, kẻo mang họa. Như thế, anh mù
mất chỗ dựa, mất hậu thuẫn huyết tộc gần gũi nhất, chỉ vì song thân lo mạng sống
của họ, hơn là che chắn, bảo vệ, đồng hành với con.
“Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới
sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở
mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi,
tự nó nó nói về mình được.” (Ga 9, 20-21)
Tuy nhiên anh mù chẳng hề tỏ ra nao núng, sợ hãi, dù đang cô
đơn chống lại khuynh hướng chống Chúa, khước từ Đấng Cứu Thế. Niềm tin đang triển
nở trong tâm hồn đã an ủi và che chở anh. Những thế lực thế gian đen tối luôn
soi mói, rình rập, đe dọa, đàn áp, hòng dập tắt đi Ánh Sáng công chính và sự sống.
Thách đố xã hội bất nhất
Bá nhơn bá tánh, khó tìm được người đồng tình hay đồng hành
trong đời. Nhất là can đảm đi theo Ánh Sáng thì càng đơn độc, lẻ loi, vì không
xu thời, không a dua theo đời, không kiếm chác danh lợi phù phiếm, càng bị cô lập,
cách ly ra khỏi xã hội thực dụng, cơ hội, hưởng thụ và duy vật. Anh mù thiệt dũng cảm, khí khái khẳng định với
thiên hạ: “Chính tôi đây."
Mặc cho thiên hạ nghi ngờ, đoán non đoán già, anh minh chứng
hùng hồn phép lạ, hồng ân, mà anh vinh dự được trao ban. Dù khi đó, anh mới chỉ
đơn giản nhận ra “Người tên là Giêsu” thế thôi. Chỉ là người gia ân, làm phước
cho anh. Thế nhưng anh không hề lung lạc, bị động theo đám đông hỗn độn, mà vô
ơn bất nghĩa, chối phắt hổng phúc mới lãnh nhận.
Anh mù sáng mắt đã kiên quyết giữ vững lập trường, tôn trọng
sự thật, xác tín lòng biết ơn và dũng cảm tuyên xưng công khai vị ân nhân. Anh
đã vượt qua xã hội nhiễu nhương, hời hợt, chia rẽ, để trung thành với niềm tin,
với Ánh Sáng giải thoát khỏi bóng đêm tăm tối cuộc đời.
Thách đố quyền lực thù địch
Nhưng có lẽ áp lực mãnh liệt nhất đối với anh mù vừa sáng mắt,
chính là nhóm Pharisiêu quá khích, hung hăng, thù hằn, thề bất cộng đái thiên với
Đức Giêsu, Ánh Sáng Sự Sống. Họ có đủ thẩm quyền, để trừng phạt dứt phép thông
công những ai bất tuân thủ theo họ. Họ cật vấn, dọa nạt, mớm lời, điều tra tới
lui anh mù được sáng, hòng lung lạc anh phủ nhận kỳ công của Đức Giêsu. Nhưng
trước sau như một, anh mù được chữa lành vẫn kiên quyết vững chãi lập trường,
mà còn xưng tụng Đức Giêsu là một “ngôn sứ”. Một sự tiến bộ tinh thần rõ ràng.
Ban đầu anh gọi ân nhân chỉ là “ông,” tiếp đến lại xưng là “ngôn sứ.” Đức Tin được chấp cánh mạnh mẽ bay cao.
Kết cuộc, anh bị tống cổ ra khỏi hội đường, buộc dứt phép
thông công với cộng đoàn, chỉ vì anh không yếu đuối, nhu nhược, hèn nhát phản bội,
lại can đảm làm chứng nhân Đức Giêsu, Ánh Sáng Cứu Độ.
Ngoạn mục vượt qua cả bốn thử thách cam go, bị trù dập, lên
án, bị bỏ rơi, anh liền được Đức Giêsu tìm đến an ủi, che chở. Anh mù đã tìm được
trọn vẹn Ánh Sáng tâm linh. “Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống
trước mặt Người.” (Ga 9, 38)
“Đừng ham cãi vả sôi nổi, con sẽ ra mù quáng. Đam mê như mây
mù, che khuất ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa.”(Đường Hy Vọng, số 210)
Lạy Chúa Giêsu, xưa Người đã đoái thương mở mắt, mở lòng anh
mù, nay xin Người cũng ban cho chúng con Ánh Sáng sự sống, dìu dắt chúng con vượt
qua những thử thách khắc nghiệt của thân xác nặng nề, của tình cảm gia đình ủy
mị, của sự dửng dưng, bất đồng của xã hội, lẫn của quyền lực đen trấn áp đe dọa.
Lạy Mẹ Maria, đức tin của Mẹ cũng trải qua biết bao phong ba
thử thách, từ khi Mẹ “Xin Vâng.” Kính xin Mẹ phù hộ, cầu bầu chúng con luôn
trung thành như Mẹ trong niềm phó thác, cậy trông. Amen.
AM Trần Bình An
No comments:
Post a Comment